Đề Xuất 6/2023 # Pisa Và Các Bài Toán Nhằm Đánh Giá Học Sinh Theo Pisa # Top 9 Like | Maubvietnam.com

Đề Xuất 6/2023 # Pisa Và Các Bài Toán Nhằm Đánh Giá Học Sinh Theo Pisa # Top 9 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Pisa Và Các Bài Toán Nhằm Đánh Giá Học Sinh Theo Pisa mới nhất trên website Maubvietnam.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

PISA và các bài toán nhằm đánh giá học sinh theo PISA

Chúng ta cũng từng nghe nói đến PISA và những tranh luận về kết quả về đánh giá theo PISA. Bài viết này tổng hợp từ tư liệu của Văn phòng PISA Việt Nam để muốn chia sẻ với các bạn những bài toán nhằm đánh giá học sinh lứa tuổi 15 về Toán học để cùng tham khảo.

PISA LÀ GÌ ?

Chương trình đánh giá học sinh quốc tế (The Programme for International Student Assessment) – PISA được xây dựng và điều phối bởi tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) vào cuối thập niên 90 và hiện vẫn diễn ra đều đặn. Khảo sát PISA được thiết kế nhằm đưa ra đánh giá có chất lượng và đáng tin cậy về hiệu quả của hệ thống giáo dục (chủ yếu là đánh giá năng lực của học sinh trong các lĩnh vực Đọc hiểu, Toán học và Khoa học) với đối tượng là học sinh ở độ tuổi 15, tuổi sắp kết thúc chương trình giáo dục bắt buộc ở hầu hết các nước thành viên OECD. PISA cũng hướng đến thu thập thông tin cơ bản về ngữ cảnh dẫn đến những hệ quả giáo dục trên. Càng ngày PISA càng thu hút được sự quan tâm và tham gia của nhiều nước trên thế giới. Do đó, PISA không chỉ đơn thuần là một chương trình nghiên cứu đánh giá chất lượng giáo dục của OECD mà trở thành xu hướng đánh giá quốc tế, tư tưởng đánh giá của PISA trở thành tư tưởng đánh giá học sinh trên toàn thế giới. Các nước muốn biết chất lượng giáo dục của quốc gia mình như thế nào, đứng ở đâu trên thế giới này đều phải đăng ký tham gia PISA.

PISA được tiến hành dưới sự phối hợp quản lí của các nước thành viên OECD, cùng với đó là sự hợp tác ngày càng nhiều của các nước không thuộc OECD, được gọi là “các nước đối tác”. Tổ chức OECD giám sát chương trình thông qua ban điều hành PISA (PGB) và quản lí chương trình thông qua cơ quan thư kí đặt trụ sở tại Pari.

Trong mỗi kì PISA, OECD lại chọn ra một nhà thầu quốc tế, quá trình chọn lựa này mang tính cạnh tranh và được diễn ra công khai. Khảo sát PISA được tổ chức 3 năm một lần. Mặc dù mỗi kì đều kiểm tra kiến

thức thuộc ba lĩnh vực chính, nhưng lĩnh vực trọng tâm sẽ được lựa chọn quay vòng, để từ đó các dữ liệu chi tiết được cập nhật liên tục theo chu kỳ đối với mỗi lĩnh vực, và được so sánh đánh giá chuyên sâu sau 9 năm một lần.

Khảo sát PISA đánh giá học sinh ở độ tuổi 15 (15 năm 3 tháng đến 16 năm 2 tháng). Đây là một cuộc khảo sát theo độ tuổi chứ không phải theo cấp bậc lớp học. Mục đích của cuộc khảo sát là nhằm đánh giá xem học sinh đã được chuẩn bị để đối mặt với những thách thức của cuộc sống xã hội hiện đại ở mức độ nào trước khi bước vào cuộc sống.

ĐỀ THI PISA

PISA kỳ thi đầu tiên là năm 2000, bài thi thực hiện trên giấy đánh giá 3 lĩnh vực: Đọc hiểu, Toán học và Khoa học.

Đến năm 2006, PISA có thêm bài thi đánh giá trên máy tính, ngoài 3 lĩnh vực trên có thêm đánh giá kỹ năng giải quyết vấn đề. Mỗi chu kỳ lại có thêm 1 vài lĩnh vực mới được phát triển.

Đến chu kỳ PISA 2015, bài thi trên máy tính đánh giá các lĩnh vực: Đọc hiểu, Toán học, Khoa học, năng lực giải quyết vấn đề hợp tác, năng lực tài chính, năng lực sử dụng máy tính. Riêng lĩnh vực Khoa học, lĩnh vực trọng tâm của kỳ thi PISA 2015, bài thi trên máy tính có nhiều câu hỏi mới hiện đại hơn các câu hỏi thi trên giấy.

Trong phần này, chúng ta nghiên cứu về 3 lĩnh vực đánh giá trên giấy mà học sinh Việt Nam sẽ tham gia. Các khung đánh giá năng lực Toán học, Khoa học, Đọc hiểu của PISA 2015 đã có thay đổi, phát triển ở tầm cao hơn so với khung đánh giá các lĩnh vực này ở chu kỳ PISA 2012.

Quyển đề thi PISA (Booklet) bao gồm nhiều bài tập (Unit), mỗi bài tập gồm một hoặc một số câu hỏi (Items). Trung bình mỗi quyển đề thi có khoảng 50-60 câu hỏi. Tổng số bài tập trong toàn bộ đề thi PISA sẽ được chia ra thành các đề thi khác nhau để đảm bảo các học sinh ngồi gần nhau không làm cùng một đề và không thể trao đổi hoặc nhìn bài nhau trong quá trình thi. Mỗi đề thi sẽ đánh giá một số nhóm năng lực nào đó của một lĩnh vực nào đó và được đóng thành “Quyển đề thi PISA” để phát cho học sinh. Thời gian để học sinh làm một quyển đề thi là 120 phút. Học sinh phải dùng bút chì để làm trực tiếp vào “Quyển đề thi PISA” (học sinh được phép sử dụng các đồ dùng khác như giấy nháp, máy tính bỏ túi, thước kẻ, com–pa, thước đo độ,… theo sự cho phép của người coi thi).

Kĩ thuật thiết kế đề thi cho phép mỗi đề thi sẽ có đủ số học sinh tham gia làm đề thi đó nhằm mục đích đảm bảo giá trị khi thực hiện thống kê phân tích các kết quả. Năm 2012, các câu hỏi thi PISA ở lĩnh vực Toán, Khoa học, Đọc hiểu được tổ hợp thành 13 quyển đề thi (booklet) khác nhau (mỗi quyển đề thi học sinh thực hiện trong 120 phút). Mỗi học sinh sẽ được xác định ngẫu nhiên để làm một trong 13 đề. Năng lực phổ thông của PISA được đánh giá qua các Unit (bài tập) bao gồm phần dẫn “stimulus material” (có thể trình bày dưới dạng chữ, bảng, biểu đồ,…) và theo sau đó là một số câu hỏi (item) được kết hợp với tài liệu này. Đây là một điểm quan trọng trong cách ra đề. Nó cho phép các câu hỏi đi sâu hơn (so với việc sử dụng các câu hỏi hoàn toàn riêng rẽ – mỗi câu hỏi lại đặt trong một bối cảnh mới hoàn toàn). Điều này cũng cho phép học sinh có thời gian suy nghĩ kĩ càng tài liệu (do ít tình huống hơn) mà sau đó có thể được sử dụng trong đánh giá ở những góc độ khác nhau. Nó cũng cho phép thuận lợi hơn trong việc gắn 12 với tình huống thực trong cuộc sống. Việc cho điểm của các câu trong một Unit là độc lập.

Các kiểu câu hỏi được sử dụng (trong các UNIT):

– Câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn (Multiple choice);

– Câu hỏi Có – Không, Đúng – Sai phức hợp (Yes – No; True – False complex);

– Câu hỏi đóng đòi hỏi trả lời (dựa trên những trả lời có sẵn) (Close – constructed response question);

– Câu hỏi mở đòi hỏi trả lời ngắn (Short response question);

– Câu hỏi mở đòi hỏi trả lời dài (khi chấm sẽ phải tách ra từng phần để cho điểm) (Open – constructed` response question); 

LĨNH VỰC TOÁN HỌC CỦA PISA 2015

Xác định năng lực Toán học

Năng lực toán học được định nghĩa như sau: “Năng lực toán học là khả năng của cá nhân biết lập công thức (formulate), vận dụng (employ) và giải thích (explain) toán học trong nhiều ngữ cảnh. Nó bao gồm suy luận toán học và sử dụng các khái niệm, phương pháp, sự việc và công cụ để mô tả, giải thích và dự đoán các hiện tượng. Nó giúp cho con người nhận ra vai trò của toán học trên thế giới và đưa ra phán đoán và quyết định của công dân biết góp ý, tham gia và suy ngẫm”.

Đánh giá năng lực Toán học phổ thông trong PISA

Năng lực phổ thông (literacy) là khái niệm quan trọng xác định nội dung đánh giá của PISA, xuất phát từ sự quan tâm tới những điều mà học sinh sau giai đoạn giáo dục cơ bản cần biết và có khả năng thực hiện được những điều cần thiết, chuẩn bị cho cuộc sống trong xã hội hiện đại.

Năng lực Toán học phổ thông (Mathematical literacy) là khả năng nhận biết ý nghĩa, vai trò của kiến thức toán học trong cuộc sống; vận dụng và phát triển tư duy toán học để giải quyết các vấn đề của thực tiễn, đáp ứng nhu cầu đời sống hiện tại và tương lai một cách linh hoạt; là khả năng phân tích, suy luận, lập luận, khái quát hóa, trao đổi thông tin hiệu quả thông qua việc đặt ra, hình thành và giải quyết vấn đề toán học trong các tình huống, hoàn cảnh khác nhau, trong đó chú trọng quy trình, kiến thức và hoạt động.

Năng lực Toán học phổ thông không đồng nhất với khả năng tiếp nhận nội dung của chương trình toán trong nhà trường phổ thông truyền thống, mà điều cần nhấn mạnh đó là kiến thức toán học được học, vận dụng và phát triển như thế nào để tăng cường khả năng phân tích, suy luận, lập luận, khái quát hóa và phát hiện được những tri thức toán học ẩn dấu bên trong các tình huống, các sự kiện.

Các cấp độ năng lực Toán học trong PISA

PISA đề cập đến 3 cấp độ năng lực Toán học phổ thông:

3 cấp độ đánh giá năng lực theo PISA

Việc đánh giá theo PISA khác với đánh giá truyền thống, đòi hỏi không chỉ chú ý đến nội dung kiến thức học sinh đã tiếp thu được, mà còn chú trọng đánh giá những năng lực, quá trình hình thành các kĩ năng (processes skills) cho học sinh. 

4 loại ngữ cảnh được xác định và sử dụng để phân loại các câu hỏi 

– Cá nhân (Personal): các vấn đề phân loại theo ngữ cảnh cá nhân loại sẽ tập trung vào các hoạt động bản thân, gia đình hoặc một nhóm đồng niên của một người nào đó. Các loại ngữ cảnh cá nhân gồm có (nhưng không giới hạn) về chuẩn bị bữa ăn, mua sắm, trò chơi, sức khỏe cá nhân, giao thông cá nhân, thể thao, du lịch, lập kế hoạch cá nhân và tài chính cá nhân.

Các câu hỏi PISA được sắp xếp theo bài thi (unit) và có chung một phần dẫn (stimulus material). Do đó, tất cả các câu hỏi ở cùng một bài thi thường thuộc về cùng một ngữ cảnh. Tuy nhiên vẫn có trường hợp ngoại lệ xảy ra, ví dụ: phần dẫn có thể được kiểm tra xem xét từ quan điểm cá nhân ở một câu hỏi và từ một quan điểm xã hội ở câu hỏi khác.

– Các hàm số (Functions): khái niệm về hàm số, nhấn mạnh nhưng không giới hạn về hàm số tuyến tính (linear functions), tính chất, các phần mô tả và phép biểu diễn về chúng. Các phép biểu diễn thường được dùng là lời nói, kí hiệu, bảng và đồ họa.

– Hệ thống tọa độ (Co-ordinate systems): các phép biểu diễn và mô tả dữ liệu, vị trí và các mối quan hệ.

– Phép đo (Measurement): định lượng về tính năng của và giữa các hình khối và đối tượng, như các phép đo góc, khoảng cách, độ dài, chu vi, chu vi, diện tích và khối lượng.

– Số và các đơn vị (Numbers and units): các khái niệm, phép biểu diễn con số và các hệ thống con số, bao gồm những tính chất về số nguyên và hữu tỉ, số vô tỉ, số lượng và các đơn vị đề cập tới những hiện tượng như thời gian, tiền bạc, trọng - lượng, nhiệt độ, khoảng cách, diện tích, khối lượng, nguồn gốc số lượng và mô tả bằng con số về chúng.

– Phần trăm, tỷ lệ và tỷ lệ thức (Percents, ratios and proportions): mô tả bằng con số về độ lớn tương đối và áp dụng tỷ lệ thức và tư duy theo tỉ lệ để giải đề.

– Nguyên tắc tính toán (Counting principles): tổ hợp và hoán vị đơn.

– Ước lượng (Estimation): phép xấp xỉ về số lượng theo mục đích và biểu thức số, gồm có cả số và số làm tròn.

– Thu thập dữ liệu, phép biểu diễn và diễn giải (Data collection, representation and interpretation): bản chất, nguồn gốc và tập hợp nhiều dạng dữ liệu, nhiều cách khác nhau để biểu diễn và diễn giải chúng.

– Dữ liệu biến thiên và mô tả về chúng (Data variability and its description): những khái niệm như biến thiên, phân phối và xu hướng tập trung các bộ dữ liệu, những cách mô tả và diễn giải chúng theo điều kiện định lượng.

– Mẫu và chọn mẫu (Samples and sampling): những khái niệm về chọn mẫu và chọn mẫu từ những tập hợp dữ liệu, gồm có suy luận đơn giản dựa trên tính chất của mẫu.

– Biến đổi và xác suất (Chance and probability): khái niệm về sự kiện ngẫu nhiên, biến thiên ngẫu nhiên và phép biểu diễn cho chúng, biến đổi và xác suất của các sự kiện, những khía cạnh cơ bản của khái niệm xác suất.

Độ khó của các câu hỏi

Có các câu hỏi để thử thách những học sinh có khả năng nhất và cả những câu hỏi phù hợp với đối tượng học sinh có khả năng kém nhất theo đánh giá toán học. Từ góc độ tâm lý, cuộc khảo sát được thiết kế để đo lường một nhóm cá nhân cụ thể chính là hiệu quả nhất và đạt hiệu quả khi độ khó của câu hỏi phù hợp với khả năng của các đối tượng đo. Hơn nữa, những quy mô về khả năng thành thạo đã nêu sẽ được sử dụng làm phần chính ở báo cáo kết quả PISA và chỉ bao gồm các chi tiết hữu ích cho tất cả học sinh nếu rút ra được mức độ khả năng đã nêu từ các câu hỏi đó.

Tuy nhiên, do mô hình đo lường dùng để phân tích dữ liệu PISA là câu hỏi độc lập, vì vậy, bất cứ khi sử dụng những bài thi (unit) có nhiều câu hỏi (item), mục đích của người ra câu hỏi thi là cần đảm bảo sự độc lập tối đa giữa các câu hỏi.

PISA áp dụng cấu trúc bài thi này để tạo điều kiện sử dụng nhiều tình huống càng thực tế càng tốt, ngoài ra còn phản ánh sự phức tạp của tình hình thực tế, song song với việc sử dụng hiệu quả thời gian thi. Tuy nhiên, cần đảm bảo là phạm vi ngữ cảnh chỉ vừa phải để tối thiểu hóa độ chệch (bias) và tối đa hóa câu hỏi độc lập.

Các câu hỏi (item) được chọn đưa vào khảo sát PISA thể hiện cho một loạt khó khăn thử thách, để phù hợp với mức độ khả năng của học sinh tham dự đánh giá.

Ngoài ra, tất cả các dạng đánh giá chính (theo nội dung, theo quy trình và theo ngữ cảnh) cũng được thể hiện tùy theo mức độ bằng những câu hỏi theo nhiều độ khó riêng. Độ khó câu hỏi chính là một trong nhiều thuộc tính đo lường trong khảo sát thử nghiệm mở rộng trước khi lựa chọn câu hỏi dùng trong khảo sát chính thức PISA.

 6 mức độ trong đánh giá theo PISA 2012

Nguồn: Tài liệu tập huấn năm 2015 của Văn phòng PISA Việt Nam.

BigSchool: Cách đánh giá theo PISA cũng còn nhiều ý kiến, xin chia sẻ ý kiến trong bài nghiên cứu của nhóm tác giả Nguyễn Thị Phương Hoa, Lê Diễm Phúc, Nguyễn Thị Thu Hà, trường ĐHNN, ĐHQG HN (Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 32, Số 1 (2016) 58-65):

Những ý kiến phê phán PISA

Theo OECD [14], PISA có những hạn chế về mặt phương pháp khảo sát như sau:

PISA khảo sát “kiến thức và kỹ năng” suốt đời và không tập trung vào các nội dung trong “chương trình học”. Điều này hạn chế khả năng mà PISA có thể khám phá mối quan hệ giữa sự khác nhau về kết quả học sinh và sự khác nhau của chương trình học đang và dự tính được tiến hành.

Học sinh tham gia PISA được chọn ngẫu nhiên trong các trường, và không thuộc về một lớp học hoặc khóa học cố định và do vậy đến từ nhiều môi trường học tập khác nhau với giáo viên khác nhau và, có thể, các cấp độ giảng dạy khác nhau. Do vậy, các biến số ở cấp độ lớp học, bao gồm biến số về trình độ giáo viên, chỉ có thể thu thập được ở cấp độ từng học sinh hoặc ở cấp độ nhà trường. Bởi thế, PISA không cung cấp thông tin hoặc các đề xuất cụ thể về phương pháp giảng dạy.

PISA chọn mẫu dựa trên độ tuổi của nhóm đối tượng khảo sát. Điều này là hoàn toàn phù hợp với các khảo sát định hướng kết quả, và giúp cung cấp cơ sở để xem xét tỉ mỉ các vấn đề chính sách quan trọng, như ảnh hưởng của một số các đặc điểm cấu trúc tới hệ thống giáo dục (vd: việc áp dụng các chương trình học “đại trà” so với các chương trình “chuyên”, hoặc việc học lại). Mặt khác, việc bao gồm cả các nước ngoài OECD trong khảo sát (ở những nước này tỉ lệ đi học của nhóm học sinh ở độ tuổi 15 có thể thấp hơn 100%) yêu cầu phải xét đến tỉ lệ nhóm học sinh ở độ tuổi 15 còn đi học khi so sánh khác biệt giữa các quốc gia.

Ngoài ra, một số tác giả cũng chỉ ra những khiếm khuyết của PISA. Ví dụ, PISA chưa đạt được tham vọng kiểm tra những kĩ năng thực dùng trong cuộc sống [15], các hạn chế về phương pháp đã làm giới hạn số lượng những năng lực có thể được đo đạc trên diện đánh giá rộng, và do đó, PISA không thể bao quát toàn bộ tất cả những kĩ năng có thể giúp cho giới trẻ thành công, hoặc sự thiếu hụt về tính hiệu lực (validity) và tính tin cậy (reliability) của các kết quả PISA [16].

Thêm nữa, một số người còn có ý kiến cho rằng PISA đã trở thành phương tiện để tuyên truyền chính sách, trong đó các ý kiến cố vấn được xây dựng trên nền tảng là những số liệu hời hợt và những phân tích không hoàn chỉnh. Chủ yếu những lời phê bình này đến từ Đức, quốc gia chịu ảnh hưởng rõ rệt của PISA.

Ở Phần Lan cũng diễn ra nhiều tranh luận, một phần là vì học sinh ở nước này làm tốt trong bài kiểm tra PISA nhưng lại có kết quả khá kém trong bài kiểm tra TIMSS vào năm 1999 [17].

Việc Việt Nam đạt thứ hạng cao trong kì đánh giá PISA 2012 (thứ 8 về Khoa học/ 528 điểm, thứ 17 về môn Toán/511 điểm, và thứ 19 về môn Đọc hiểu/508 điểm) đã làm dậy sóng truyền thông và cũng thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học nói chung, khoa học giáo dục nói riêng, và đặc biệt là của đông đảo người dân. Ý kiến phê phán phương pháp khảo sát của PISA thì ít (nổi bật có bài của tác giả Nguyễn Văn Tuấn chỉ ra một số lỗi trong thống kê) [18], đa phần các tác giả chỉ trích PISA vì họ đã tự khoác cho PISA một “chiếc áo” không phải của PISA. Như OECD tuyên bố, PISA không đánh giá chất lượng của một nền giáo dục, PISA chỉ đánh giá học sinh ở giai đoạn chuẩn bị kết thúc thời gian học tập bắt buộc về kiến thức và kĩ năng cần thiết cho việc sống và làm việc trong xã hội, tập trung vào ba mảng kĩ năng cơ bản (khoa học, đọc hiểu, và toán học). PISA là một nghiên cứu so sánh đánh giá giáo dục quốc tế lớn nhất từ trước đến nay, bởi thế nên việc còn tồn tại những hạn chế, từ đó mà tạo ra những ý kiến tranh luận trái chiều cũng là điều dễ hiểu. Và qua mỗi kì đánh giá PISA, OECD đã nỗ lực hoàn thiện bộ công cụ đánh giá, qua đó thêm nhiều kĩ năng quan trọng khác cần thiết cho cuộc sống của người học sau này cũng được đánh giá chứ không chỉ dừng ở những kĩ năng cơ bản như đã nói ở trên: PISA 2003 bổ sung đánh giá kĩ năng giải quyết vấn đề, PISA 2012 bổ sung đánh giá kĩ năng tài chính và kĩ năng giải quyết vấn đề một cách sáng tạo, PISA 2015 bổ sung đánh giá kĩ năng hợp tác giải quyết vấn đề.

Tài liệu dẫn:

[15] Schleicher, A. (2007). Can competencies assessed by PISA be considered the fundamental school knowledge 15-year-olds should possess? Eductional Change, 8(4), 8.

[16] Sjøberg, S. (2007). PISA and “Real Life Challenges”: Mission Impossible? In S. T. Hopmann (Ed.), PISA according to PISA (tr. 9).

[17] Schneider, M. (2009). The International PISA Test, 2009, from http://educationnext.org/theinternational-pisa-test/

Đề Tài Phát Triển Năng Lực Học Sinh Bằng Câu Hỏi Tích Hợp Liên Môn Định Hướng Pisa

PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH BẰNG CÂU HỎI TÍCH HỢP LIÊN MÔN ĐỊNH HƯỚNG PISA Năm học 2015 - 2016 3 - TÌM HIỂU CHƯƠNG TRÌNH PISA 3.1 - TỔNG QUAN VỀ PISA. 3.1.1. Pisa - Chương trình đánh giá học sinh quốc tế. Pisa là chương trình đánh giá học sinh ở độ tuổi 15 ở các nước nhằm đánh giá chất lượng giáo dục của mỗi nước tham gia chương trình, từ đó rút ra bài học về chính sách đối với giáo dục phổ thông. 3.1.2. Mục đích của Pisa. - Đánh giá học sinh sau khi kết thúc giai đoạn giáo dục bắt buộc (tương đương với kết thúc lớp 9 ở Việt Nam) đã chuẩn bị ở mức nào để đáp ứng với thách thức của cuộc sống. Năng lực được đánh giá cụ thể qua các lĩnh vực Đọc hiểu, Toán học và Khoa học. - Nghiên cứu ảnh hưởng của các chính sách đến kết quả học tập của học sinh. - Nghiên cứu hệ thống các điều kiện giảng dạy, học tập ảnh hưởng đến kết quả học tập của học sinh. 3.1.3. Đặc điểm của PISA - Thực hiện trên quy mô toàn cầu. - Chu kì 3 năm một lần, bắt đầu từ năm 2000. - Chuyên đánh giá về năng lực phổ thông của học sinh độ tuổi 15. Đánh giá năng lực thông qua 3 lĩnh vực là Đọc hiểu, Toán học và Khoa học. - Chú trọng xem xét các vấn đề về chính sách công, về hiểu biết phổ thông và sự học tập suốt đời (Học tập trong cuộc sống). 3.1.4. Đề thi và sự mã hóa. - Bộ đề thi PISA gồm nhiều bài tập, mỗi bài tập gồm một hoặc nhiều câu hỏi. -Bộ đề thi được chia thành các đề khác nhau, mỗi đề thi dành cho học sinh có thời gian làm trong 120 phút. - PISA không sử dụng khái niệm chấm bài mà sẽ mã hóa đề thi để đánh giá mức năng lực của học sinh. Các câu trả lời được quy chiếu ở các mức là Đầy đủ, Chưa đầy đủ và Không đạt. Sau khi mã hóa, nhập kết quả thi vào phần mềm thì dữ liệu sẽ được xử lí và chuyển đổi thành điểm cho mỗi học sinh. 3.2 - KẾT QUẢ PISA CỦA VIỆT NAM. 3.2.1- Mục đích Việt Nam tham gia PISA - Bước tích cực của hội nhập quốc tế về giáo dục. - So sánh "mặt bằng" giáo dục quốc gia với giáo dục quốc tế. - Phân tích và đánh giá về chính sách giáo dục quốc gia . - Góp phần đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo: học tập quốc tế về đánh giá chất lượng giáo dục, nhất là đổi mới về kĩ thuật và phương pháp đánh giá, đưa ra cách tiếp cận mới về dạy - học, thi và đánh giá. 3.2.2-Thực trạng Việt Nam so với các nước tham gia PISA 2012. - Lần đầu tiên Việt nam tham gia chương trình PISA. - Việt Nam xếp thứ 69/70 về GDP bình quân đầu người - Việt Nam xếp thứ 70/70 về chỉ số HDI 3.2.3- Kết quả đạt được của Việt Nam. - PISA 2012: Toán học xếp thứ 17/65. Đọc hiểu xếp thứ 19/65. Khoa học xếp thứ 8/65. Sau cuộc thi, kết quả học sinh Việt Nam đạt được khá cao đã gây bất ngờ trong cộng đồng quốc tế; thống kê của OECD về năng lực của học sinh Việt Nam ở trong khối như sau. Năng lực học sinh Việt Nam so với trung bình toàn khối OECD- 2012 ( Nguồn: Theo ViêtNamNet) - PISA 2015: Toán học và Khoa học Việt Nam xếp thứ 12/70. Xếp hạng của OECD - 2015 1. Singapore 2. Hồng Kông 3. Hàn Quốc 4. Nhật 5. Đài Loan 6. Phần Lan 7. Estonia 8. Thụy Sĩ 9. Hà Lan 10. Canada 11. Ba Lan 12. Việt Nam. ( Nguồn: Theo ViêtNamNet) 3.2.4 -Ý kiến phản biện từ kết quả PISA. - Việt Nam đã tổ chức luyện thi 2 năm trước khi tham gia PISA năm 2012. - Học sinh dự thi được lựa chọn ở một số trường. - Giáo dục VN có trọng tâm là học để thi -.đặc trưng cơ bản nhất của cái học trong truyền thống Nho giáo. Kết quả kỳ thi PISA cho thấy học sinh Việt Nam học rất giỏi nhưng chưa chắc đã giỏi theo cách hiểu của quốc tế. - Việc đánh giá chỉ nhắm vào học sinh 15 tuổi cũng là một hạn chế của PISA. Kiến thức của các em còn rất xa mới đáp ứng được đòi hỏi của mọi lĩnh vực đời sống . Nếu có một kỳ thi tương tự PISA nhưng đánh giá ở lứa tuổi trung bình cao hơn, ví dụ lứa tuổi 20 dành cho sinh viên các trường đại học, hoặc dành cho nhóm người đang là lao động chủ lực của nền kinh tế, thì chắc chắn kết quả sẽ thấp hơn rất nhiều. - Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam nhanh nhưng vẫn là quốc gia trung bình, GDP còn thấp, nền giáo dục lạc hậu nhiều so với khu vực, châu lục và thế giới. Vì vậy, việc xếp hạng "chất lượng giáo dục toàn cầu" hoàn toàn chỉ mang tính tham khảo, chứ không phải để chúng ta tự hào hay tự ti, hy vọng hay thất vọng. 3.2.4-Tín hiệu đáng mừng từ kết quả PISA. - Khung kiến thức, kỹ năng trong bài thi PISA được thiết kế không phụ thuộc vào chương trình GD của quốc gia nào, mà đó là khung năng lực chung của quốc tế; chứng tỏ chương trình, SGK của VN đã trang bị cho HS các kiến thức cơ bản, đáp ứng được các yêu cầu kiến thức, kỹ năng của quốc tế. - Kết quả đạt được chứng tỏ năng lực của học sinh Việt Nam tương đối đồng đều, đa số các em được trang bị kiến thức cơ bản. Ngược lại, ở nhiều nước khác kết quả PISA có sự phân hóa cực lớn, chứng tỏ có sự bất bình đẳng trong môi trường giáo dục. - Khả năng độc lập sáng tạo của học sinh thể hiện qua việc vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Khát vọng hội nhập cũng đo được ở sự nỗ lực làm bài kiểm tra, đó là các em muốn chứng tỏ bản thân, danh dự quốc gia, khát vọng vươn lên phát triển giàu mạnh nên đã cố gắng chứng tỏ mình trung thực, học tốt. - Những đánh giá trước đây về giáo dục của chúng ta đều do chúng ta tự thực hiện, nên có thể chúng ta đã nghiêm khắc với những gì mình có. Chúng ta thường kỳ vọng, khát khao một thực tế tốt đẹp hơn, nên cảm thấy phiền muộn, không thấy tin cậy vào những kết quả đạt được. Tương tự như trường hợp Đỗ Nhật Nam, thành tích của em đã làm nảy sinh nhiều ý kiến bàn luận trái chiều; khách quan mà nói, tất cả các thành tích cao đều thể hiện sự tích cực đáng ghi nhận và trân trọng. 4. CÂU HỎI TÍCH HỢP LIÊN MÔN TRONG KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ PHÁT HUY NĂNG LỰC HỌC SINH. 4.1- CƠ SỞ XÂY DỰNG BỘ CÂU HỎI. 4.1.1- Những hạn chế của bài tập truyền thống. - Tiếp cận một chiều, ít thay đổi trong việc xây dựng bài tập. - Thiếu đánh giá về khả năng ứng dụng kiến thức vào thực tiễn. - Kiểm tra thành tích, chú trọng khả năng nhớ và hiểu ngắn hạn. - Ít ôn tập thường xuyên, thiếu kết nối giữa kiến thức đã biết và cái mới. - Tính tích lũy của việc học bị hạn chế. 4.1.2- Những ưu điểm của bài tập tiếp cận năng lực. - Đánh giá được sự vận dụng kiến thức có sự phối hợp các năng lực cá nhân - Tiếp cận năng lực sâu sắc thông qua các tình huống trong cuộc sống. - Hướng nhiều đến học sinh và các phương pháp hơn là nội dung kiến thức. 4.1.3 - Các kênh thông tin cần lưu ý khi xây dựng câu hỏi, bài tập. Bài tập vật lí rất đa dạng, nhất là câu hỏi bài tập định hướng năng lực lại càng phong phú, linh hoạt. Khi xây dựng câu hỏi, bài tập cần chú ý đến các vấn đề sau để chọn nội dung câu hỏi và đặt câu hỏi cho phù hợp. - Nội dung kiến thức cần kiểm tra, đánh giá. - Các năng lực thành phần cần đánh giá ở học sinh hoặc ở bài học. - Đối tượng học sinh. Câu hỏi đánh giá cá nhân hay đánh giá nhóm? Học lực của học sinh ở mức nào?.... - Phạm vi kiểm tra đánh giá. Củng cố một phần của bài học, toàn bài hay một chương; kiểm tra 15 phút hoặc 1 tiết. - Các ứng dụng của kiến thức trong đời sống. Các hiện tượng, sự kiện thực tế đưa vào câu hỏi cần đảm bảo rằng để giải quyết được chỉ cần các kiến thức đặc trưng của bộ môn và cần phù hợp với năng lực học sinh. 4.1.4 - Những điểm mới lạ của câu hỏi PISA rất đáng học tập. - Nêu các sự việc, hiện tượng một cách khách quan, không làm "lộ" kiến thức chuyên môn từ đó học sinh phải suy nghĩ tối đa. - Tình huống, chi tiết chọn lọc sao cho vấn đề đặt ra là một bài học cần thiết đối với học sinh. - Câu hỏi đặt ra nhằm khai thác vấn đề nhiều chiều, đánh giá tổng hợp nhiều năng lực thành phần. - Có thủ thuật để phát huy năng lực học sinh. Có thể nêu thiếu giả thiết, thừa giả thiết để học sinh phải dựa vào hiểu biết của bản thân để giải quyết vấn đề. - Đề bài một mặt là kiểm tra kiến thức, kĩ năng sống của học học sinh, mặt khác lại cung thêm các kĩ năng trong cuộc sống. 4.2 -CÂU HỎI PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC THEO ĐỊNH HƯỚNG PISA TRONG PHẦN NHIỆT HỌC VẬT LÍ 8. 4.2.1- Trọng tâm kiến thức nhiệt học lớp 8. - Cấu tạo chất, các đặc điểm của phân tử, nguyên tử. - Các hình thức truyền nhiệt: Dẫn nhiệt, đối lưu và bức xạ nhiệt. - Nguyên lí truyền nhiệt. - Phương trình cân bằng nhiệt. 4.2.2- Quy trình xây dựng các câu hỏi tích hợp phần nhiệt học. - Nghiên cứu nội dung chương trình vật lí 8. - Tìm hiểu đối tượng học sinh. - Tìm hiểu chương trình PISA, nhất là các câu hỏi của chương trình. - Lựa chọn tình huống, lựa chọn nội dung kiến thức, lựa chọn cách hỏi sao cho phù hợp với đối tượng học sinh. - Sau khi xây dựng câu hỏi có sự vận dụng và khảo sát thực tế nhằm đánh giá khả năng ứng dụng, khả năng tương tác với học sinh. 4.2.3- Nội dung các câu hỏi. Lưu ý chung: - Hình thức đặt câu hỏi thực hiện theo cách hỏi của PISA. Tuy nhiên, các câu trả lời sẽ không mã hóa mà được trình bày cụ thể để phù hợp với chương trình dạy học. Giáo viên tùy vào mức trả lời của học sinh so với định lượng trả lời trong đáp án mà đánh giá học sinh. Bài 1 - CHĂN BÔNG. Kiến thức bộ môn: Sự dẫn nhiệt. Khi chăn chưa đắp lên người thì tấm chăn lạnh lẽo, sau khi đắp lên người thì cái chăn đó lại trở lên ấm áp. Như vậy thực sự là người đã sưởi ấm cho cái chăn chứ không phải chăn sưởi ấm cho người. Khi ta làm cái chăn ấm lên thì cái chăn cũng sẽ giữ ấm cho ta, giúp ta có giấc ngủ ngon. Mỗi người chúng ta trên thế giới này đều nằm trong chăn bông và người khác chính là chăn bông của chúng ta. Khi chúng ta một lòng muốn sưởi ấm chăn bông thì chăn bông cũng sẽ giữ ấm cho chúng ta. Câu hỏi : CHĂN BÔNG. 1. Khi đắp chăn, chăn truyền nhiệt sang người hay người truyền nhiệt sang cái chăn, vì sao? 2. Thân nhiệt của người luôn ổn định ở mức 370C. Tại sao mùa hè ta vẫn thấy nóng và mùa đông ta thấy lạnh? 3. Cái chăn không sinh ra nhiệt tại sao khi đắp chăn ta thấy ấm áp? 4. Thông điệp chính của bài viết là gì? Cái chăn không sinh ra nhiệt, cơ thể người đã làm nóng cái chăn. Hãy giúp đỡ người khác vì lợi ích về sau. Sự tử tế đem lại những điều tốt đẹp cho bản thân và mọi người. Nên đắp chăn giữ ấm vào mùa lạnh. Trả lời: CHĂN BÔNG. 1. Nhiệt độ của người cao hơn nhiệt độ của chăn nên nhiệt truyền từ người sang cái chăn. 2. Mùa hè nhiệt độ ngoài trời cao hơn nhiệt độ cơ thể, nhiệt truyền từ bên ngoài vào cơ thể nên ta thấy nóng. - Mùa đông nhiệt độ từ cơ thể truyền ra môi trường ngoài, cơ thể bị mất nhiệt nên ta thấy lạnh. 3. Cái chăn ngăn cản sự truyền nhiệt ra ngoài môi trường, một phần nhiệt của cơ thể được giữ lại ở vùng không khí trong chăn sưởi ấm cơ thể. Cơ thể không bị mất nhiệt ra bên ngoài mà còn được ủ ấm nên ta thấy ấm áp. 4. Chọn C Bài 2 - HIỆU ỨNG NHÀ KÍNH Kiến thức bộ môn: Bức xạ nhiệt. Nhiệt độ trung bình của bề mặt trái đất được quyết định bởi cân bằng giữa năng lượng mặt trời chiếu xuống trái đất và lượng bức xạ nhiệt của mặt đất vào vũ trụ. Bức xạ nhiệt của mặt trời dễ dàng xuyên qua tầng ozon và lớp khí CO2 để đi tới mặt đất, ngược lại bức xạ nhiệt từ trái đất vào vũ trụ lại không có khả năng xuyên qua lớp khí CO2 dày và bị CO2 cùng hơi nước trong khí quyển hấp thụ. Như vậy lượng nhiệt này làm cho nhiệt độ bầu khí quyển bao quanh trái đất tăng lên. Lớp khí CO2 dày làm nhiệt lượng tỏa ra từ trái đất truyền dội ngược trở lại trên quy mô toàn cầu. Bên cạnh CO2 còn có một số khí khác cũng được gọi chung là khí nhà kính như NOx, Metan, CFC. Từ khoảng 100 năm nay con người tác động mạnh vào sự cân bằng giữa hiệu ứng nhà kính tự nhiên và tia bức xạ của mặt trời. Việc tăng nồng độ các khí nhà kính do loài người gây ra sẽ làm tăng nhiệt độ trên toàn cầu, làm thay đổi khí hậu, từ đó kéo theo các ảnh hưởng tiêu cực đến sự sống trên trái đất. ( Nguồn: Theo Wikipedia) Câu hỏi: HIỆU ỨNG NHÀ KÍNH. 1.Lớp "kính" trong hiện tượng này là gì? A. Tầng Ôzôn B. Nguồn nhiệt lượng bị giữ lại quanh trái đất. C. Bầu khí quyển chứa các lớp khí thải bao quanh trái đất. D. Nguồn bức xạ mặt trời truyền vào trái đất. 2. Trường hợp nào sau đây không ảnh hưởng đến hiệu ứng nhà kính? A. Xây dựng quy chế hoạt động trong một công ty lớn. B. Núi lửa phun trào C. Trồng cây gây rừng, phủ xanh đồi trọc. D. Lạm dụng thuốc trừ sâu trong trồng trọt. 3. Một số loại khí thải công nghiệp dạng Freon ( khí gas) có thể bốc thẳng lên tầng Ôzôn và phá hủy tầng này. Khi tầng ôzôn bị phá hủy sẽ ảnh hưởng gì đến hiệu ứng nhà kính? 5. Hiệu ứng nhà kính gây ra các ảnh hưởng tiêu cực đến sự sống trên trái đất. Em hãy nêu một số hậu quả do hiệu ứng nhà kính gây ra? 6. Em hãy nêu một số biện pháp có thể thực hiện được để giảm hiệu ứng nhà kính. Trả lời: HIỆU ỨNG NHÀ KÍNH. 1.Chọn C. 2. Chọn A. 3 - Tầng ozon ngăn cản bức xạ mặt trời vào trái đất. - Khi tầng ozon bị phá hủy, nguồn nhiệt lượng bức xạ từ mặt trời xuống trái đất sẽ lớn hơn, trái đất nóng hơn và cũng bức xạ nhiệt ra ngoài mạnh hơn. - Nguồn nhiệt bức xạ từ trái đất càng mạnh thì nguồn bức xạ ngược lại trên lớp khí nhà kính càng lớn và như vậy trái đất sẽ càng nóng hơn. 4.Tùy học sinh. Căn bản cần thể hiện được bức xạ nhiệt từ mặt trời, bức xạ nhiệt từ trái đất, lớp "kính" và sự bức xạ nhiệt trên lớp kính đó. 5. Tùy học sinh. Có thể nêu một số ý sau: - Làm trái đất nóng lên, ảnh hưởng đến sức khỏe, sinh hoạt của con người. - Làm băng tan ở các cực, nước biển ngày càng dâng lên gây bão lụt càng lớn. - Gây ra cháy rừng và các hệ lụy khác - Gây ra hạn hán, cạn kiệt nguồn nước nhiều nơi. - Làm chết nhiều loài sinh vật. - Làm mất dần các vùng tài nguyên ven biển. - Làm suy giảm sự vận chuyển đường thủy 6. Tùy học sinh. Có thể nêu một số ý sau: - Trồng nhiều cây xanh để giảm lượng khí CO2 - Giảm bớt lượng khí thải công nghiệp - Tăng cường sử dụng các nguồn năng lượng sạch trong tự nhiên: gió, nước, mặt trời.. - Sử dụng tiết kiệm năng lượng. Bài 3 - BẢO VỆ HỒ NƯỚC Kiến thức bộ môn: Bức xạ nhiệt. Có khoảng 20.000 quả bóng được thả vào hồ chứa tại khu phức hợp Van Norman thuộc Sylmar, California ngày 10/8/2015. Ngày 10/8/2015, hàng ngàn quả bóng màu đen được thả xuống một hồ nước ở nước Mỹ. Những quả bóng bằng nhựa, màu đen này có kích cỡ bằng một trái táo, có giá trị khoảng 8.000 đồng, có tác dụng bảo vệ nguồn nước khỏi tác động thiên nhiên như bụi, mưa, hóa chất hay vi sinh gây ô nhiễm. Đồng thời, ngăn chặn sự bay hơi của nước lên tới hơn 900 triệu lít nước mỗi năm. Sáng kiến này giúp tiết kiệm tới 250 triệu USD (trên 5 nghìn tỉ VND) so với phương pháp xây đập chia cắt hồ. Nếu dùng vải che kín mặt hồ thì phải tốn hơn dùng những trái bóng này tới 300 triệu USD. ( Nguồn: Theo chúng tôi ) Câu hỏi: BẢO VỆ HỒ NƯỚC Em hãy nêu các giá trị của việc thả những quả bóng đen xuống hồ nước. Vì sao người ta dùng bóng màu đen mà không dùng màu khác? Trả lời: BẢO VỆ HỒ NƯỚC Các giá trị là: Bảo vệ nguồn nước trước các tác động tự nhiên. Ngăn chặn sự bay hơi của nước trong hồ. Tiết kiệm kinh phí thực hiện so với các giải pháp khác. 2. Vật màu đen hấp thụ bức xạ nhiệt mạnh hơn các vật màu khác, do đó những quả bóng màu đen sẽ thu nhiệt từ mặt trời chiếu vào hồ nước làm nhiệt độ của nước ổn định và giảm sự bốc hơi nước trong hồ. Bài 4 - VẬN CHUYỂN XĂNG Kiến thức bộ môn: Dẫn nhiệt, bức xạ nhiệt. Xăng là chất rất nhạy bắt lửa, có thể bắt lửa ở nhiệt độ dưới 210C. Mặt khác nồng độ xăng dầu trong không gian ở mức từ 1% đến 6% là rơi vào trạng thái dễ cháy nổ. Các bồn chứa xăng phải đảm bảo các tiêu chuẩn an toàn nghiêm ngặt, trong đó bắt buộc các thùng phi hay bồn chứa xăng đều phải làm bằng kim loại. Các thùng này rất nặng gây khó khăn khi vận chuyển nhưng vì yêu cầu an toàn chúng ta không thể dùng các thùng nhựa nhẹ và tiện lợi hơn để vận chuyển xăng. Câu hỏi: VẬN CHUYỂN XĂNG. Vì sao các bồn xăng thường được sơn một lớp nhũ màu trắng sáng? Lí do chủ yếu bồn chứa xăng làm bằng sắt mà không làm bằng nhựa là gì? Sắt dẫn nhiệt tốt hơn nhựa. Sắt bền hơn nhựa. Sắt dẫn điện tốt, nhựa không dẫn điện. Sắt không bị xăng ăn mòn. Với cùng một lượng xăng và cùng một quãng đường vận chuyển, người lái xe thấy rằng vào mùa đông ô tô vận chuyển đã tiêu tốn nhiều dầu hơn vào mùa hè. Em hãy nêu nguyên nhân của vấn đề này. Vì sao khí thải từ động cơ xe có thể phát tán rất rộng trong không khí và có thể xâm nhập vào phổi của người đi đường? Trả lời: VẬN CHUYỂN XĂNG. Vật màu sáng và bề mặt nhẵn hấp thụ nhiệt kém vì vậy các bồn xăng được sơn lớp nhũ trắng sáng sẽ đỡ bị nóng hơn là không sơn màu hoặc sơn màu tối khác. Ngoài ra, việc sơn nhẵn giúp bồn xăng giảm ma sát với không khí khi vận chuyển do đó đỡ phát sinh ra nhiệt. Chọn C. Mùa đông nhiệt độ thấp, nhiệt lượng nhiên liệu dầu tỏa ra sẽ bị hao phí nhiều hơn để làm nóng động cơ; nhiệt lượng tỏa ra môi trường không khí cũng lớn hơn. Do đó mùa đông động cơ xe tiêu tốn nhiều nhiên liệu hơn. Khí thải là các hạt nhỏ bé và chuyển động không ngừng trong không khí. Khi người đi đường hít phải, các hạt khí thải lẫn trong không khí có thể xâm nhập vào phổi người vì chúng rất nhỏ. Bài 5 - BỨC TƯỜNG LỬA. Kiến thức bộ môn: Đối lưu. Dùng lửa dập lửa. Để dập tắt một đám cháy trên đồng cỏ hay đám cháy rừng chúng ta có thể dùng một đám cháy khác. Ta sẽ dùng lửa đốt ngay từ phía trước đầu hướng của đám cháy lây lan đến để hai ngọn lửa tiến giáp lại với nhau; một bức tường lửa được dựng lên để ngăn chặn sự lây lan của lửa! Phương pháp nghe có vẻ không hợp lí nhưng nó thực sự hiệu quả và khoa học. Khi cháy rừng, từ ngọn lửa nhỏ sẽ bắt cháy lớn dần và lan rộng. Lớp không khí gần ngọn lửa sẽ bị làm cho nóng lên, chúng sẽ nở ra và trở nên nhẹ hơn. Thế nên sản phẩm nóng của sự cháy không ở lại nơi chúng hình thành mà bị không khí mới đẩy lên phía trên một cách nhanh chóng. Quá trình này cứ tiếp tục khiến ngọn lửa ngày càng lan rộng và dữ dội hơn. Ta đốt rừng về phía ngược lại, để cho hai bức tường lửa gặp nhau. Ngọn lửa mới sẽ cướp đoạt vật liệu cháy của đám cháy rừng, khiến đám cháy rừng bị tắt. Tuy nhiên, cách làm này phải thực hiện đúng thời điểm. Ở khu vực đã định sẵn vị trí đốt để tạo ra bức tường lửa phải đợi đến khi có luồng không khí thổi về phía đám cháy thì mới được đốt lửa, nếu đốt lửa không đúng thời điểm sẽ càng tạo ra nguy hiểm lớn hơn. (Phỏng theo Vật Lí Vui - Quyển 2, trang 176) Câu hỏi: BỨC TƯỜNG LỬA. Bằng kiến thức về sự đối lưu em hãy giải thích vì sao khi cháy, ngọn lửa luôn có xu hướng bốc lên cao? Để dập tắt đám cháy bằng một đám cháy khác cần phải thực hiện đúng thời điểm. Thời điểm để đốt lửa là khi nào? Tại sao phải đốt lửa vào thời điểm đó? Tại sao đốt lửa không đúng thời điểm sẽ rất nguy hiểm? Trả lời: BỨC TƯỜNG LỬA. 1.- Khi lửa cháy, phần không khí xung quanh ngọn lửa bị đốt nóng sẽ nở ra, nhẹ đi và bốc lên cao. - Không khí lạnh hơn bên ngoài sẽ tràn về phía ngọn lửa, luồng không khí này mang nhiên liệu cháy đến nuôi ngọn lửa đồng thời tiếp tục bị đốt cháy và bốc lên cao. - Sự đối lưu liên tục của các dòng không khí đã làm ngọn lửa luôn bốc lên cao khi cháy. 2. - Thời điểm đốt lửa là khi xuất hiện luồng không khí thổi về phía đám cháy đang lan đến. - Đốt lửa khi đó thì các dòng không khí có xu hướng bị hút về đám cháy, bức tường lửa ta tạo ra sẽ lan về phía đám cháy và ngăn chặn được đám cháy. 3. Nếu đốt lửa không đúng thời điểm thì đám cháy mới ta đốt lên sẽ lan rộng theo nhiều phía. Như vậy chúng ta không những không dập tắt được đám cháy cũ mà còn tạo ra những đám cháy mới ngày càng lan rộng hơn. Bài 6 - ONE - SEVEN Kiến thức bộ môn: Dẫn nhiệt, đối lưu. Sau 1 phút có thể dập tắt đám cháy 30m2 bằng 1 vòi cứu hỏa. One - Seven là một phương pháp chữa cháy tiên tiến mà tập đoàn Gimaex chuyển giao công nghệ tới Việt nam. Một - Bảy có nghĩa là một giọt nước được biến thành 7 hạt bọt foam có kích thước đồng đều nhau. Khoảng cách ném tối ưu (lên tới 25m) của phương pháp chữa cháy Một - Bảy bắt nguồn từ sự giảm sức ép, từ đó làm tăng lượng bọt khí tại áp suất xung quanh và tạo ra các hạt bọt có động năng cao. Các bọt foam lấy năng lượng từ khí đang cháy trong quá trình chúng bốc hơi, giúp làm nguội nhanh chóng. Nhờ vào kích cỡ phù hợp và đồng nhất của các hạt bọt, những tia hồng ngoại - một trong những hiệu ứng sản sinh ra nhiệt bức xạ - bị hấp thụ hết, tăng khả năng làm nguội. Phương pháp này có thể được sử dụng trong tất cả các loại đám cháy. Với việc sử dụng bằng tay rất dễ dàng, nó tăng độ an toàn cho những người làm công tác cứu hoả. Nhờ vào năng lượng động lực cao, phương pháp chữa cháy Một - Bảy có thể tới được chỗ nhiên liệu đang cháy một cách trực tiếp, bám chặt lấy nó, xoá đi các tác nhân gây cháy. Áp lực bề mặt nhẹ và khả năng thẩm thấu cao của phương phương tiện chữa cháy tạo nên khả năng thấm nhanh và sâu của nó vào trong nhiên liệu cháy, làm nguội nhanh phần bên trong của nhiên liệu, ngăn ngừa sự bắt lửa lại. ( Theo Dantri.com) Câu hỏi: ONE - SEVEN. Nêu các ưu điểm của phương pháp chữa cháy One - Seven? Nguyên tắc dập tắt đám cháy của phương pháp One - Seven chủ yếu là gì? Dùng động năng của nước để thổi tắt ngọn lửa. Các hạt nhỏ sẽ xóa đi các tác nhân gây cháy. Dùng vòi phun để tạo ra các hạt bọt foam. Giảm nhiệt độ cuả đám cháy và nhiệt độ của nhiên liệu cháy. 3. Giải thích tại sao khi cháy ngọn lửa luôn bốc lên cao? Trả lời: ONE - SEVEN. 1.Tùy học sinh, có thể nêu các ý sau: - Hiệu quả cao vì tăng khả năng làm nguội đám cháy. - Sử dụng được với tất cả các loại đám cháy. - Thực hiện dễ dàng và an toàn. - Khoảng cách ném tối ưu. - Ngăn ngừa sự bắt lửa trở lại của nhiên liệu cháy. 2. Chọn D. 3. Xem câu 1, bài 5 : Bức tường lửa. Bài 7 - CHƯỜM NÓNG, CHƯỜM LẠNH. Kiến thức bộ môn: Dẫn nhiệt, nguyên lí truyền nhiệt. Chườm nóng, chườm lạnh là những thủ thuật đơn giản nhưng lại có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác chăm sóc bệnh nhân, điều trị một số bệnh nhiễm khuẩn và một số trường hợp chấn thương. Tác dụng của việc chườm nóng là làm cho bệnh nhân ấm; làm giảm sự co của gân, cơ, dây chằng, giảm sự cứng khớp, giảm đau, tăng cảm giác dễ chịu, sự thư giãn hoặc làm tăng tuần hoàn tại chỗ, làm giảm sự sung huyết ở sâu. Chườm lạnh giúp làm giảm sự xuất huyết hay phản ứng viêm nhiễm khuẩn; làm giảm đau do làm chậm sự dẫn truyền thần kinh và giúp hạ nhiệt độ. Câu hỏi: CHƯỜM NÓNG, CHƯỜM LẠNH. Trong các trường hợp sau đây, việc thực hiện chườm nóng hay chườm lạnh có hợp lí hay không? Em hãy nêu nhận xét của mình bằng cách đánh dấu X vào ô trống tương ứng đối với mỗi trường hợp trong bảng sau. Các trường hợp Nên Không nên Bạn An không may bị ngã, răng bạn ấy bị chảy máu nên phải ngậm nước ấm để giảm đau. Khi chân tay bị tê cứng vào mùa lạnh có thể dùng nước ấm để ngâm chân tay. Trong lúc đá bóng, hai bạn học sinh đã có va chạm và cả hai đều bị bầm tím ở chân. Mọi người đã nhanh chóng dùng khăn mát đắp lên các vết bầm đó. Người bị sốt cao cần được ủ kín để tránh gió lùa và phải đắp khăn ấm lên trán. Khi bị say nắng hay say nóng, cần nhanh chóng hạ nhiệt bằng cách chườm khăn lạnh. Với vết thương ngoài da bị chảy máu, có thể dùng nước mát pha thêm ít muối cho loãng để rửa. Khi bị chuột rút ở chân cần lấy nước đá lau quanh phần các búi cơ để giảm cơn đau. Trả lời: CHƯỜM NÓNG, CHƯỜM LẠNH. Các trường hợp Nên Không nên Bạn An không may bị ngã, răng bạn ấy bị chảy máu nên phải ngậm nước ấm để giảm đau. X Khi chân tay bị tê cứng vào mùa lạnh có thể dùng nước ấm để ngâm chân tay. X Trong lúc đá bóng, hai bạn học sinh đã có va chạm và cả hai đều bị bầm tím ở chân. Mọi người đã nhanh chóng dùng khăn mát đắp lên các vết bầm đó. X Người bị sốt cao cần được ủ kín để tránh gió lùa và phải đắp khăn ấm lên trán. X Khi bị say nắng hay say nóng, cần nhanh chóng hạ nhiệt bằng cách chườm khăn lạnh. X Với vết thương ngoài da bị chảy máu, có thể dùng nước mát pha thêm ít muối cho loãng để rửa. X Khi bị "chuột rút" ở chân cần lấy nước đá lau quanh phần các búi cơ để giảm cơn đau. X Bài 8: THÓC GIỐNG Kiến thức bộ môn: Phương trình cân bằng nhiệt. Trước khi ngâm ủ cần phơi giống lại 2 - 3 giờ dưới nắng nhẹ để tăng sức hút nước và tăng độ nẩy mầm của hạt, không phơi trực tiếp trên sân gạch hay sân xi măng. Sau đó, cần loại bỏ những hạt lép, hạt lửng, hạt cỏ dại, tạp chất, nấm bệnh bằng nước nóng 540C hoặc nước muối 15%. Cách xử lý hạt giống bằng nước nóng 540C: Pha nước sôi với nước lạnh để có nước ở 540C rồi đổ thóc từ từ vào nước đã pha, ngâm trong thời gian 10 - 15 phút; lượng nước nóng 540C cần gấp khoảng 4 lần lượng hạt giống cần xử lý (ví dụ: 10 kg hạt giống cần 40 lít nước 540C); vớt bỏ những hạt nổi, hạt lơ lửng trong nước, gạn lấy những hạt chìm mang đãi sạch. Câu hỏi: THÓC GIỐNG. 1. Để xử lý 5 kg thóc giống theo nguyên tắc " 3 sôi 2 lạnh" người ta phải dùng 12 lít nước sôi. Tính nhiệt độ của nước lạnh. Bỏ qua các hao phí nhiệt. 2. Trong thực tế, để xử lý 5kg thóc giống người ta đã dùng 10 lít nước sôi. Tính nhiệt độ của nước lạnh dùng để ngâm thóc biết có sự tỏa nhiệt ra môi trường mất 15%. Trả lời: THÓC GIỐNG. 1.Thể tích nước 54oC để xử lý 5kg thóc giống là V = 20 lít. Thể tích nước sôi là V1 = 12l nên thể tích nước lạnh cần dùng là V2 = 8l. Gọi D là khối lượng riêng của nước, C là nhiệt dung riêng của nước và t là nhiệt độ của nước lạnh. Ta có : D.V1.C.( 100 - 54) = D.V2.C. ( 54 - t) 12.(100 - 54) = 8.(54 - t) t = -150C. 2. Thể tích nước sôi là V1 = 10l nên thể tích nước lạnh cần dùng là V2 = 10l. Nhiệt lượng nước nguội thu được bằng 0,85 nhiệt lượng nước sôi tỏa ra. Gọi t' là nhiệt độ của nước nguội, ta có: 0,85.D.V1.C.( 100 - 54) = D.V2.C. ( 54 - t') 0,85.10.(100 - 54) = 10.(54 - t') t' 150C. Bài 9: LUỘC KHOAI TÂY Kiến thức bộ môn: Phương trình cân bằng nhiệt. Nhiệt độ (oC) Thời gian (phút) (Theo Tài liệu tập huấn môn Vật Lí năm học 2014- Bộ GD &ĐT) Câu hỏi: LUỘC KHOAI TÂY. 1. Năng lượng bếp ga cung cấp trong 5 phút đầu tiên và 15 phút tiếp theo được sử dụng vào việc gì? 2. Hãy lí giải tại sao giá trị sau 5 phút đầu tiên nhỏ hơn mong đợi. 3.Tính năng lượng cung cấp cho nước và khoai tây trong 5 phút đầu tiên. Khoai tây chủ yếu được cấu tạo từ nước, và có thể coi là khối lượng nước trong nồi là 500g. Người ta cần 4,19kJ để làm 1kg nước tăng 1o C. 4.Trong 5 phút đầu tiên đã dùng hết 0,018 m3ga. Năng suất tỏa nhiệt của ga là 39MJ/ m3. Tính nhiệt lượng hao phí trong thời gian này. 5. Khoai tây không được đổ ngập nước. Hãy nêu lí do vì sao chỉ cần dùng lượng nước tối thiểu để luộc. Trả lời: LUỘC KHOAI TÂY. 1. Trong 5 phút đầu tiên, năng lượng của bếp dùng để làm nhiệt độ nước và khoai tây trong nồi tăng dần từ 20oC đến khoảng 100oC; 15 phút tiếp theo năng lượng bếp cung cấp để duy trì nhiệt độ nước trong xoong ở 100oC và tiếp tục đun chín khoai. 2. Học sinh có thể nêu: - Do một phần nhiệt lượng từ bếp ga truyền vào xoong kim loại, truyền ra môi trường không khí xung quanh. - Do bếp ga cung cấp nhiệt lượng chưa đủ, cần đun to hơn. - Do khối lượng nước và khoai trong xoong lớn - Do vung đậy không kín bị hao phí nhiệt ra ngoài...... 3. Khối lượng nước m = 500g = 0,5kg Nhiệt dung riêng của nước C = 4190J/kg.K Tính năng lượng cung cấp cho nước và khoai tây trong 5 phút đầu tiên là Q = m.C. = 0,5.4190.(100 - 20) = 167600J. 4. Nhiệt lượng bếp ga cung cấp trong 5 phút đầu tiên là Q' = 0,018.39000000 = 702000J. Nhiệt lượng hao phí trong thời gian này là Qhp = Q' - Q = 702000 - 167600 = 534400 J 5. Học sinh có thể nêu một số lí do sau: - Khi nước nóng lên nở ra sẽ ngập toàn bộ khoai. - Nước bốc hơi liên tục, nhiệt độ của hơi nước rất cao trong xoong cũng làm chín khoai. - Trong khoai đã chứa nhiều nước để làm chín khoai. Bài 10: NƯỚC Kiến thức bộ môn: Bức xạ nhiệt. ( Nguồn : PISA và các dạng câu hỏi - Bộ GD&ĐT) Câu hỏi: NƯỚC. 1. So sánh độ mặn của nước ở bể 1 và bể 2. 2. Nêu tác dụng của tấm kính trong hệ thống. 3. Sử dụng mặt trời làm nguồn nhiệt có ưu điểm và hạn chế gì? Trả lời: NƯỚC. 1. Nước ở bể 2 mặn hơn vì nước biển ở bể 1 sau khi qua tấm vải bông đã bay hơi nước một phần, phần còn lại dồn vào bể 2 ít nước hơn nên nồng độ muối cao hơn. 2. Tác dụng của tấm kính trong hệ thống: - Bức xạ mặt trời có thể xuyên qua được tấm kính và chiếu vào vải bông làm cho nước nóng lên và bốc hơi mạnh. - Nhiệt độ bên trong bức xạ lên tấm kính sẽ bị bức xạ ngược trở lại. Tấm kính làm tăng nhiệt độ phía trong và làm nước bốc hơi mạnh hơn. - Tấm kính làm ngưng tụ hơi nước và dồn vào bể chứa 1. 3. Mặt trời là nguồn năng lượng tự nhiên nên sử dụng mặt trời giúp giảm được rất nhiều chi phí. Tuy nhiên, dùng mặt trời làm nguồn nhiệt sẽ sản xuất nước không thể liên tục vì bức xạ nhiệt từ mặt trời xuống tấm kính không đều; việc thu hoạch nước không chủ động vì phụ thuộc vào mặt trời. Bài 11: MẤT NHIỆT Kiến thức bộ môn: 3 hình thức truyền nhiệt, cấu tạo chất. ( Nguồn : PISA và các dạng câu hỏi - Bộ GD&ĐT) Câu hỏi: MẤT NHIỆT 1. Nhiệt bị truyền

Đánh Giá Đề Thi Môn Toán Kỳ Thi Thpt Năm 2022

Theo các ý kiến chuyên môn, đề thi môn Toán trong kỳ thi THPT quốc gia 2019 dễ hơn đề năm 2018, tuy nhiên vẫn đảm bảo tính phân loại học sinh.

Chiều 25/6, hơn 887.000 thí sinh trên cả nước đã hoàn thành bài thi môn Toán, kỳ thi THPT quốc gia 2019 với hình thức trắc nghiệm. Trong đó, khoảng 653.000 thí sinh đăng ký xét tuyển đại học, cao đẳng, gần 234.000 thí sinh dự thi chỉ để xét tốt nghiệp THPT. Đa số các sĩ tử mang tâm lý thoải mái, tự tin sau khi hoàn thành bài thi Toán, nhiều em tự tin đạt điểm trên 8.

Theo Thạc sĩ Nguyễn Cao Cường, đề thi Toán năm nay phù hợp với kỳ thi “2 trong 1”.

Theo Thạc sĩ Nguyễn Cao Cường – giảng viên có nhiều năm kinh nghiệm luyện thi môn Toán kỳ thi THPT quốc gia tại Hà Nội, đề thi Toán năm nay phù hợp với kỳ thi “2 trong 1”. Những học sinh có học lực trung bình hoặc không chọn Toán làm môn xét vào đại học, mà chỉ thi để tốt nghiệp THPT có thể đạt 5 – 6 điểm.

Thầy Cường cho biết, đề thi năm nay dễ hơn đề thi năm 2018, đúng tinh thần Bộ GD&ĐT đã công bố trước đó: “Kiến thức tập trung vào chương trình lớp 12, một số ít câu thuộc chương trình lớp 11, gồm hai câu hỏi về tổ hợp, cấp số (mức độ thông hiểu, nhận biết); một câu về xác suất (mức độ vận dụng)”.

Một số câu hỏi khó trong đề thi Toán kỳ thi THPT 2019.

Đề thi Toán kỳ thi THPT có cấu trúc rõ ràng theo 4 mức độ: nhận biết, thông hiểu, vận dụng và vận dụng ở mức độ cao. Các câu hỏi được sắp xếp theo trình tự dễ, khó đến rất khó.

Cụ thể, 35 câu đầu là những câu hỏi mức độ nhận biết và thông hiểu với các kiến thức cơ bản như: tính đơn điệu hàm số; giá trị lớn nhất, nhỏ nhất trên một đoạn; công thức logarit; nguyên hàm;…, có thể giúp học sinh khá đạt điểm 7 mà không gặp trở ngại lớn nào.

Tính phân loại trong đề thi thể hiện rõ từ câu 36 đến câu 50, tập trung vào các kiến thức như: khoảng cách trong hình học không gian (lớp 11), hàm số ẩn, phương trình logarit, phép tính tích phân ở mức độ cao, hình học giải tích,… Theo thầy Cường, chỉ những học sinh có học lực giỏi và xuất sắc mới có cơ hội giải quyết được những câu hỏi này. Tuy nhiên, học sinh không gặp phải những câu hỏi “đánh đố” như đề thi năm 2018.

Năm nay, điểm thi môn Toán kỳ thi THPT được kỳ vọng sẽ cao hơn năm 2018, tuy nhiên sẽ không quá cao như năm 2017.

Thầy Đinh Quang Cường đến từ CLB Thủ khoa Việt Nam cũng cho biết, đề thi Toán năm nay “dễ thở” hơn năm ngoái. 15 câu cuối của đề thi đòi hỏi thí sinh phải nắm vững kiến thức của cả ba năm học lớp 10, 11 và 12. Tuy nhiên, nếu cho thêm thời gian, nhiều thí sinh có khả năng giải được những câu “cực khó”, không quá hóc búa như đề năm 2018. Phổ điểm sẽ phổ biến ở mức 7, 8 điểm.

Các Dạng Bài Tập Toán Về Mệnh Đề Và Phương Pháp Giải

Mệnh đề và tập hợp nằm trong chương mở đầu của sách giáo khoa đại số toán 10, để học tốt toán 10 các em cần nắm vững kiến thức ngay từ bài học đầu tiên. Vì vậy trong bài viết này chúng ta cùng ôn lại kiến thức Mệnh đề và áp dụng giải một số bài tập.

I. Lý thuyết về Mệnh đề

1. Mệnh đề là gì?

– Định nghĩa: Mệnh đề là một câu khẳng định ĐÚNG hoặc SAI.

– Một mệnh đề không thể vừa đúng hoặc vừa sai.

2. Mệnh đề phủ định

3. Mệnh đề kéo theo và mệnh đề đảo

◊ P là điều kiện ĐỦ để có Q

◊ Q là điều kiện CẦN để có P

4. Mệnh đề tương đương

* Chú ý: “Tương đương” còn được gọi bằng các thuật ngữ khác như “điều kiện cần và đủ”, “khi và chỉ khi”, “nếu và chỉ nếu”.

5. Mệnh đề chứa biến

– Mệnh đề chứa biến là một câu khẳng định chứa biến nhận giá trị trong một tập X nào đó mà với mỗi giá trị của biến thuộc X ta được một mệnh đề.

6. Các kí hiệu ∀, ∃ và mệnh đề phủ định của mệnh đề có chứa kí hiệu ∀, ∃ 

– Kí hiệu ∀ : đọc là với mọi; ký hiệu ∃ đọc là tồn tại.

II. Các dạng bài tập toán về Mệnh đề và phương pháp giải

• Dạng 1: Xác định mệnh đề và tính đúng sai của mệnh đề

* Phương pháp:

– Dựa vào định nghĩa mệnh đề xác định tính đúng sai của mệnh đề đó

– Mệnh đề chứa biến: Tìm tập D của các biến x để p(x) đúng hoặc sai

 Ví dụ 1: Các câu sau đây, câu nào là mệnh đề, câu nào không phải là mệnh đề? Nếu là mệnh đề hãy cho biết mệnh đề đó đúng hay sai.

a) Trời hôm nay đẹp quá!

b) Phương trình x2 – 3x +1 = 0 vô nghiệm.

c) 15 không là số nguyên tố.

e) Số Π có lớn hơn 3 hay không?

f) Italia vô địch Worldcup 2006.

g) Hai tam giác bằng nhau khi và chỉ khi chúng có diện tích bằng nhau.

h) Một tứ giác là hình thoi khi và chỉ khi nó có hai đường chéo vuông góc với nhau.

* Hướng dẫn:

– Câu a) câu e) không là mệnh đề (là câu cảm thán, câu hỏi?)

– Câu c) d) f) h) là mệnh đề đúng

– Câu b) câu g) là mệnh đề sai

 Ví dụ 2: Xác định tính đúng sai của các mệnh đề sau

a) 2 là số chẵn

b) 2 là số nguyên tố

c) 2 là số chính phương

* Hướng dẫn:

a) Đúng

b) Đúng (2 chia hết cho 1 và chính nó nên là số nguyên tố)

c) Sai (số chính phương có các chữ số tận cùng là 0, 1, 4, 5, 6, 9)

 Ví dụ 3: Điều chính ký hiệu ∀ và ∃ để được mệnh đề đúng

a) ∀x ∈ R: 2x + 5 = 0

b) ∀x ∈ R: x2 - 12 = 0

* Hướng dẫn:

a) ∃x ∈ R: 2x + 5 = 0

b) ∃x ∈ R: x2 - 12 = 0

• Dạng 2: Các phép toán về mệnh đề - phủ định mệnh đề

* Phương pháp:  Dựa vào định nghĩa các phép toán

 Ví dụ 1: Nêu mệnh đề phủ định của các mệnh đề sau, cho biết mệnh đề này đúng hay sai?

P: “Hình thoi có hai đường chéo vuông góc với nhau”.

Q: ”66 là số nguyên tố”.

R: Tổng hai cạnh của một tam giác lớn hơn cạnh còn lại

K: “Phương trình x4 – 2×2 + 2 = 0 có nghiệm”

* Hướng dẫn:

– Ta có mệnh đề phủ định là:

 Ví dụ 2: Phủ định của các mệnh đề sau

A: n chia hết cho 2 và chia hết cho 3 thì n chia hết cho 6.

B: ΔABC vuông cân tại A

C: √2 là số thực

* Hướng dẫn:

 Ví dụ 3: Phủ định của các mệnh đề sau và cho biết tính đúng sai.

Q: ∃x ∈ R: x3 + x2 + x + 2 ≠ 0

R: ∀A, ∀B: A∩B⊂A

* Hướng dẫn:

 R: ∀A, ∀B: A∩B⊂A ⇔ ∀x∈A∩B ⇒x∈A

• Dạng 3: Các phép toán về mệnh đề – mệnh đề kéo theo, tương đương

* Phương pháp:  Dựa vào định nghĩa các phép toán

 Ví dụ 1: Phát biểu mệnh đề P ⇒ Q và phát biểu mệnh đề đảo, xét tính đúng sai của nó.

a) P:” Tứ giác ABCD là hình thoi” và Q: “Tứ giác ABCD có AC và BD cắt nhau tại trung điểm của mỗi đường”.

* Hướng dẫn:

a) Mệnh đề: P ⇒ Q; P:”Tứ giác ABCD là hình thoi thì AC và BD cắt nhau tại trung điểm của mỗi đường”. Là mệnh đề ĐÚNG

– Mệnh đề Đảo Q ⇒ P: ”Tứ giác ABCD có AC và BD cắt nhau tại trung điểm của mỗi đường thì ABCD là hình thoi”. Là mệnh đề SAI

 Ví dụ 2: Phát biểu mệnh đề P ⇔ Q và xét tính đúng sai.

a) P: “Tứ giác ABCD là hình thoi” và Q: “Tứ giác ABCD là hình bình hành có 2 đường chéo vuông góc với nhau”

* Hướng dẫn:

a) P ⇔ Q: ”Tứ giác ABCD là hình thoi khi và chỉ khi Tứ giác ABCD là hình bình hành và 2 đường chéo vuông góc với nhau”. Là mệnh đề ĐÚNG vì P⇒Q đúng và Q⇒P đúng

• Dạng 4: Phương pháp chứng minh bằng phản chứng

 Ví dụ 1: Chứng minh “n2 chẵn ⇒ n chẵn”

* Hướng dẫn:

– Mệnh đề A: n chẵn

 ⇒ n2 = 2(2p2 + 2p) + 1 ⇒ n2 = 2k + 1 (k = 2p2 + 2p)

 ⇒ n2 lẻ (trái giả thiết).

⇒ Vậy n chẵn.

* Hướng dẫn:

III. Bài tập về Mệnh đề

Bài 1 trang 9 sgk đại số 10: Trong các câu sau, câu nào là mệnh đề, câu nào là mệnh đề chứa biến?

a) 3 + 2 = 7 ;    b) 4 + x = 3;

* Lời giải bài 1 trang 9 sgk đại số 10:

a) 3 + 2 = 7 là mệnh đề và là mệnh đề sai: Vì 3 + 2 = 5 ≠ 7

b) 4 + x = 3 là mệnh đề chứa biến: Vì với mỗi giá trị của x ta được một mệnh đề.

 Ví dụ : với x = 1 ta có mệnh đề « 4 + 1 = 3 ».

 với x = –1 ta có mệnh đề « 4 + (–1) = 3 ».

 với x = 0 ta có mệnh đề 4 + 0 = 3.

d) 2 – √5 < 0 là mệnh đề và là mệnh đề đúng: Vì 2 = √4 và √4 < √5.

Bài 2 trang 9 sgk đại số 10:  Xét tính đúng sai của mỗi mệnh đề sau và phát biểu mệnh đề phủ định của nó:

a) 1794 chia hết cho 3 ;

b) √2 là một số hữu tỉ

* Lời giải bài 2 trang 9 sgk đại số 10: 

a) Mệnh đề “1794 chia hết cho 3” Đúng vì 1794:3 = 598

– Mệnh đề phủ định: “1794 không chia hết cho 3”

b) Mệnh đề “√2 là số hữu tỉ’” Sai vì √2 là số vô tỉ

– Mệnh đề phủ định: “√2 không phải là một số hữu tỉ”

c) Mệnh đề π < 3, 15 Đúng vì π = 3,141592654…

– Mệnh đề phủ định: “π ≥ 3, 15”

Bài 3 trang 9 SGK Đại số 10: Cho các mệnh đề kéo theo:

Nếu a và b cùng chia hết cho c thì a + b chia hết cho c (a, b, c là những số nguyên).

Các số nguyên tố có tận cùng bằng 0 đều chia hết cho 5.

Một tam giác cân có hai đường trung tuyến bằng nhau.

Hai tam giác bằng nhau có diện tích bằng nhau.

a) Hãy phát biểu mệnh đề đảo của mỗi mệnh đề trên.

b) Hãy phát biểu mỗi mệnh đề trên, bằng cách sử dụng khái niệm “điều kiện đủ”.

c) Phát biểu mỗi mệnh đề trên, bằng cách sử dụng khái niệm “điều kiện cần”.

* Lời giải Bài 3 trang 9 SGK Đại số 10:

 Mệnh đề  Mệnh đề đảo  Phát biểu bằng khái niệm “điều kiện đủ”  Phát biểu bằng khái niệm “điều kiện cần”  Nếu a và b cùng chia hết cho c thì a+b chia hết cho c.  Nếu a+b chia hết cho c thì cả a và b đều chia hết cho c.  a và b chia hết cho c là điều kiện đủ để a+b chia hết cho c.  a+b chia hết cho c là điều kiện cần để a và b chia hết cho c.  Các số nguyên có tận cùng bằng 0 đều chia hết cho 5.  Các số nguyên chia hết cho 5 thì có tận cùng bằng 0.  Một số nguyên tận cùng bằng 0 là điều kiện đủ để số đó chia hết cho 5.  Các số nguyên chia hết cho 5 là điều kiện cần để số đó có tận cùng bằng 0.  Tam giác cân có hai đường trung tuyến bằng nhau  Tam giác có hai đường trung tuyến bằng nhau là tam giác cân.  Tam giác cân là điều kiện đủ để tam giác đó có hai đường trung tuyến bằng nhau.  Hai trung tuyến của một tam giác bằng nhau là điều kiện cần để tam giác đó cân.  Hai tam giác bằng nhau có diện tích bằng nhau  Hai tam giác có diện tích bằng nhau là hai tam giác bằng nhau.  Hai tam giác bằng nhau là điều kiện đủ để hai tam giác đó có diện tích bằng nhau.  Hai tam giác có diện tích bằng nhau là điều kiện cần để hai tam giác đó bằng nhau.

Bài 4 trang 9 SGK Đại số 10: Phát biểu mỗi mệnh đề sau, bằng cách sử dụng khái niệm “điều kiện cần và đủ”.

a) Một số có tổng các chữ số chia hết cho 9 thì chia hết cho 9 và ngược lại.

b) Một hình bình hành có các đường chéo vuông góc là một hình thoi và ngược lại.

c) Phương trình bậc hai có hai nghiệm phân biệt khi và chỉ khi biệt thức của nó dương.

* Lời giải bài 4 trang 9 SGK Đại số 10

a) Điều kiện cần và đủ để một số chia hết cho 9 là tổng các chữ số của nó chia hết cho 9.

b) Một hình bình hành có các đường chéo vuông góc là điều kiện cần và đủ để nó là một hình thoi.

c) Để phương trình bậc hai có hai nghiệm phân biệt, điều kiện cần và đủ là biệt thức của nó dương.

Bài 5 trang 10 SGK Đại số 10: Dùng kí hiệu ∀, ∃ để viết các mệnh đề sau:

a) Mọi số nhân với 1 đều bằng chính nó.

b) Có một số cộng với chính nó bằng 0.

c) Mọi số cộng với số đối của nó đều bằng 0.

* Lời giải bài 5 trang 10 SGK Đại số 10:

 a) ∀ x ∈ R: x.1 = x

 b) ∃ a ∈ R: a + a = 0

 c) ∀ x ∈ R: x + (-x) = 0

Bài 6 trang 10 SGK Đại số 10: Phát biểu thành lời mỗi mệnh đề sau và xét tính đúng sai của nó.

b) ∃ n∈N : n2 = n

c) ∀ n∈N; n ≤ 2n

d) ∃ x∈R : x < 1/x.

* Lời giải bài 6 trang 10 SGK Đại số 10:

a) Bình phương của mọi số thực đều dương.

– Mệnh đề này sai vì khi x = 0 thì x2 = 0.

– Sửa cho đúng: ∀x∈R : x2 ≥ 0.

b) Tồn tại số tự nhiên mà bình phương của nó bằng chính nó.

– Mệnh đề này đúng. Vì có: n = 0; n = 1.

c) Mọi số tự nhiên đều nhỏ hơn hoặc bằng hai lần của nó.

– Mệnh đề này đúng.

d) Tồn tại số thực nhỏ hơn nghịch đảo của chính nó.

– Mệnh đề này đúng. Vì có: 0,5 < 1/0,5.

Bài 7 trang 10 SGK Đại số 10: Lập mệnh đề phủ định của các mệnh đề sau và xét tính đúng, sai của nó:

a) ∀ n ∈ N: n chia hết cho n ;

b) ∃ x ∈ Q : x2 = 2

c) ∀ x ∈ R : x < x + 1;

d) ∃ x ∈ R: 3x = x2 + 1

* Lời giải bài 7 trang 10 SGK Đại số 10:

a) A: “∀ n ∈ N: n chia hết cho n”

b) B: “∃ x ∈ Q: x2 = 2”.

c) C: “∀ x ∈ R : x < x + 1”.

d) D: “∃ x ∈ R: 3x = x2 + 1”.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Pisa Và Các Bài Toán Nhằm Đánh Giá Học Sinh Theo Pisa trên website Maubvietnam.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!